Trường Vạn Hạnh xưa ở Hà Nội là trường tư, do các nhà sư trong giáo hội Phật giáo lập nên, đối diện với Nhà thờ Hàm Long. Năm 1953, vì nghịch ngợm, cậu mợ bắt tôi đi học lớp năm (tức lớp một bây giờ) tại trường tiểu trung học Vạn Hạnh.
2.2- Sơ lược tiểu sử thiền sư Vạn Hạnh Thiền sư Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (nay là làng Đại đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [7] , họ Nguyễn, không rõ tên tục là gì.
Thiền sư Nhất Hạnh là một người yêu dân tộc, yêu đạo pháp, muốn đất nước có tự do no ấm. Viện Đại Học Vạn Hạnh do Thiền Sư Nhất Hạnh sáng lập và nhà xuất bản Lá Bối bị ngưng hoạt động. Cô nhi viện Quách Thị Trang bị trưng dụng. "Tiểu sử cố Hòa
Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025) có nhiều đóng góp to lớn cho triều đại nhà Lý. Một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử nước Đại Việt - Việt Nam. những ngày giỗ kỵ hằng năm chúng ta cũng ôn lại tiểu sử của ông bà nhờ đó con cháu mình biết được
Vì sao là một người tu hành mà thiền sư Nhất Hạnh lại làm một chuyện vọng ngữ là một trong những trọng tội Đó là học viện Phật giáo Việt Nam và thiền viện Vạn hạnh ở quận Phú nhuận, thiền viện Trúc Lâm ở thành phố Đàlạt, thiền viện Phật giáo Huế và
mmf2zu. Tiểu sử Vạn Hạnh Thiền Sư 938 1025 Vạn Hạnh 938 – 1025 là tên một vị thiền sư thời Tiền Lê có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri. Thiền sư họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư ịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma ịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê ại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi vua Lê ại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả bị Chiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và trận ấy quân Lê thành công. Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói những loại sấm truyền và tiên tri ông dùng có rất nhiều thứ không kể hết được. Sách này kể ra một vài phương pháp đã dùng Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược bị thiên hạ ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó có hai chữ “thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất tức năm 1010. Ngày Rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 9 tức 30 tháng 6 năm 1018, khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư gọi đồ chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh Xá lợi của ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh.[3] bài kệ như sau "Thân như bóng chớp có rồi không Cây cối xanh tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông". Vua Lý Nhân Tông 1072-1127 có bài kệ "Truy tán Vạn Hạnh thiền sư" Toàn văn bài kệ Vạn Hạnh dung tam tế Chân phù cổ sấm cơ Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ Bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình Vạn Hạnh thông ba cõi Thật hợp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy trấn kinh vua Bản dịch của Nguyễn Văn Trình 1872-1949 Học thông tam giới ghê thay Rằng thầy Vạn Hạnh thi tài rất cao. Cửa làng Cổ pháp tiếng reo Gậy tăng đủng đỉnh bay vào Đế đô. Trước năm 1975, ở miền nam Việt Nam có một viện đại học mang tên ông là Viện Đại học Vạn Hạnh. Hiện nay, nhiều thành phố ở Việt Nam có tên đường "Sư Vạn Hạnh" để tưởng nhớ một vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi lại bài Sấm – Vĩ của Vạn Hạnh Thọ căn diễu diễu Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc Thập bát tử thành Đông a nhập địa Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình Dịch là Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình Sưu tầm - Ban Tuyên giáo TĐ
THIỀN SƯ VẠN HẠNH 938?-1018 Quốc Sư Việt Nam oOo Thiền Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, thông suốt tam học và nghiên cứu Bách Luận mà vẫn xem thường công danh phú quý. Năm 21 tuổi Sư xuất gia, cùng Thiền Sư Định Huệ thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt. Sau khi Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng Trì Tam-ma-địa”, lấy đó làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính Sư. Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980, tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn; vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi – Quân ta thắng bại thế nào? Sư đáp – Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui. Quả đúng như lời Sư đoán. Có kẻ gian tên Đỗ Ngân âm mưu hại Sư. Biết trước sự việc, Sư đưa cho y một bài thơ Thổ mộc tương sanh Cấn bạn Câm [kim]* Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm? Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt Chân chí vị lai bất hận tâm. Dịch Thổ mộc sanh nhau Cấn với Kim Vì sao ôm ấp lòng hận phiền? Bấy giờ tôi biết lòng buồn dứt Thật đến sau này chẳng bận tâm. * Thổ Mộc là Đỗ, Cấn Kim là Ngân. Được thơ này gã Ngân hoảng sợ không tiến hành mưu hại nữa. Lúc vua Lê Ngọa Triều ở ngôi quá tàn bạo, mọi người đều oán ghét. Khi ấy Lý Thái Tổ còn làm chức Thân Vệ, chưa lên ngôi. Bấy giờ trong nước có những điềm lạ xuất hiện liên miên. Tùy theo chỗ thấy nghe, Sư đều bàn giải phù hợp với triệu chứng nhà Lê sắp mất, nhà Lý lên thay. Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay “Thiên tử đã băng hà, Lý Thân Vệ đã khuất phục trong thành nội, túc trực trong vài ngày Thân Vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư ra yết thị rằng Tật Lê trầm bắc thủy Lý tử thọ nam thiên Tứ phương qua can tịnh Bát biểu hạ bình an. Dịch Tật Lê chìm biển Bắc Cây Lý che trời Nam Bốn phương binh đao dứt Tám hướng thảy bình an. Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín 1018 ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi Chúng nói kệ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thạnh suy vô bố úy Thạnh suy như lộ thảo đầu phô. Dịch Thân như bóng chớp có rồi không Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi Thạnh suy như cỏ hạt sương đông. Nói xong, Sư lại bảo Chúng “Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng giây lát, Sư tịch. Vua Lý Thái Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt Xá-lợi xây tháp cúng dường. Về sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng Vạn Hạnh dung tam tế Chơn phù cổ sấm cơ [ky] Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ. Dịch Vạn Hạnh thông ba mé Thật hợp lời sấm xưa Quê nhà tên Cổ Pháp Dựng gậy vững kinh vua./. Tượng Thiền Sư Vạn Hạnh tại chùa Tiêu Thiên Tâm Tự, Bắc Ninh, Việt Nam. Phần đọc thêm Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam có một viện đại học mang tên Thiền Sư là Viện Đại Học Vạn Hạnh, tọa lạc ngay dưới dốc cầu Trương Minh Giảng, đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn nay là cầu Công Lý, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa nhưng nay đã bị trưng thu. Hiện nay, nhiều thành phố, thị xã ở Việt Nam có tên đường “Sư Vạn Hạnh” để tưởng nhớ một vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi lại bài sấm – vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh Thọ căn diễu diễu Mộc biểu thanh thanh Hoa đào mộc lạc Thập bát tử thành Đông a nhập địa Dị mộc tái sanh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình. Dịch Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hoa đào rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cành khác lại sanh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình./. *** Di ảnh trong bài là bản mô phỏng vẽ lại.
1. Tiểu sử và hành trạng của thiền sư Vạn Hạnh Thiền sư Vạn Hạnh là vị cao Tăng thời Lý, nối pháp thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đời thứ 12. Thiền sư họ Nguyễn, người làng Cổ Pháp. Từ thuở nhỏ thiền sư đã thông minh hơn người. Thiền sư Vạn Hạnh vốn là người tinh thông cả Nho, Lão, Phật, đã nghiên cứu hàng trăm bộ kinh luận Phật giáo. Với bản tính không màng danh lợi, năm 21 tuổi Vạn Hạnh xuất gia học đạo với thiền sư Thiền Ông ở chùa Lục Tổ. Thiền sư Vạn Hạnh là người đã dạy học cho cả vua Lê Đại Hành và Lý Thái Tổ, không những về chữ nghĩa văn chương mà còn dạy cả giáo lý Phật Đà, tinh thần nhập thế, phụng sự chúng sanh. Vạn Hạnh đã giúp đỡ rất nhiều cho vua Lê Đại Hành trong các công việc quân quốc đại sự. Khi nhận biết đế nghiệp nhà Tiền Lê đã đến hồi mạt vận, thiền sư Vạn Hạnh đã khéo léo vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, chấm dứt thời kì đen tối của dân tộc dưới triều vua Lê Long Đĩnh tàn ác, dâm loạn, đồng thời ngăn chặn được những biến loạn nguy hiểm có thể xảy ra khi Lê Long Đĩnh băng hà. Sau cuộc thay triều đổi đại không đổ máu ấy, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lý Thái Tổ sắc phong làm Quốc sư. Nhân cơ hội này, thiền sư Vạn Hạnh đã đem hết tài trí, khả năng và tinh thần dung hợp Tam giáo Nho, Lão, Phật của mình để giúp vua Lý Thái Tổ trị quốc an dân đúng với vị trí của một vị lãnh đạo về mặt tinh thần và tâm linh. Với tinh thần nhập thế thiền sư đã hành động để giúp dân an cư lạc nghiệp. Bàn tay và khối óc của thiền sư Vạn Hạnh đã góp một phần không nhỏ cho việc hình thành và phát triển nhà Lý, một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Năm Thuận Thiên thứ 16 1025, thiền sư Vạn Hạnh viên tịch vào ngày rằm tháng 5 tại chùa Lục Tổ. 2. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu chi với “sấm vĩ học” Thiền sư Vạn Hạnh là thế hệ thứ 12 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Nói đến thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi không thể không nhắc đến yếu tố Mật giáo trong thiền phái này. Các yếu tố Mật giáo này đã được các vị thiền sư trong thiền phái ứng dụng để cho ra đời hình thức “sấm vĩ” như một phương tiện để truyền đạo hữu hiệu. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi do thiền sư người Ấn Độ tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền vào nước ta năm 580. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi là thiền phái đầu tiên du nhập vào Việt Nam và tồn tại suốt 633 năm với 19 đời truyền thừa từ thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến người cuối cùng là thiền sư Y Sơn. Từ các yếu tố Mật giáo trong tư tưởng thiền học của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đưa đến việc hình thành “sấm vĩ học”, là môn học suy trắc về tương lai, căn cứ trên lý thuyết âm dương và lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc. Về việc phát triển hình thức sấm vĩ trong thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đầu tiên ta có thể nói đến thiền sư Định Không. Một hôm khi đào đất đắp nền dựng chùa Quỳnh Lâm, ông đã tìm thấy mười chiếc khánh và một cái lư hương, khi đem xuống sông rửa thì một chiếc khánh bị chìm xuống nước. Từ sự việc ấy thiền sư Định Không đã đặt tên cho chốn đất ấy là Cổ Pháp. Và xuất bài kệ “Địa trình pháp khí Nhất phẩm trinh đồng Trì Phật pháp chi hưng long Lập hương danh Cổ Pháp Pháp khí xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công”. Dịch “Đất trình pháp khí Phẩm chất tinh đồng Đưa Phật pháp đến thuở hưng long Đặt tên làng là Cổ Pháp Pháp khí xuất hiện Mười chiếc chuông đồng Nhà Lý hưng vương Tam phẩm thành công”.[1] Trước khi mất thiền sư Định Không còn căn dặn Thông Thiện phải giữ gìn cuộc đất nơi Cổ Pháp. Nếu để mất thế đất ấy bậc đế vương không thể xuất hiện để định quốc và xiển dương Phật pháp. Trong các thế hệ sau có thiền sư Đinh La Quý cũng là người tinh thông sấm vĩ và phong thủy. Khi Cao Biền trấn yểm thế đất nước Nam, thiền sư La Quý đã cho người đào lên và phá đi thế yểm đó. Chính ông cũng khẳng định lại nơi đất Cố Pháp sau sẽ xuất hiện bậc đế vương để trị quốc an bang, hoằng dương chánh pháp nên ông đã quyên góp tiền vàng đúc tượng Lục Tổ bằng vàng đem chôn gần Tam quan và dặn đệ tử khi nào có minh đế xuất hiện thì đào lên mà lấy vàng ấy đem đi ủng hộ, còn khi thời cuộc u ám còn ngự trị thì phải giấu dưới đất. Việc thứ hai thiền sư Đinh La Quý làm là trồng cây gạo ở chùa Minh Châu để giữ lại thế đất nơi Cổ Pháp. Trước khi viên tịch thiền sư Đinh La Quý còn để lại bài sấm “Đại sơn long đầu khởi Xà vĩ ẩn châu minh Thập bát tử [2] định thành Miên thọ hiện long hình Thố kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh” Dịch “Trên núi lớn có đầu rồng xuất hiện Sau đuôi rắn có ẩn ngọc minh châu Mười tám chàng trai nhất định công thành Hình rồng hiện từ gốc cây miên mộc Trong tháng chuột, ngày gà, giờ thỏ Mặt trời lên rực rỡ trên mây xanh”. [3] Chính bài sấm của thiền sư Đinh La Quý cũng đã một phần tiên đoán sự thành công của Lý Công Uẩn căn cứ vào phong thủy và sấm vĩ. Sấm vĩ là một phương tiện để truyền bá Phật giáo. Các thiền sư trong thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã khéo léo vận dụng nghệ thuật sấm vĩ ấy trong công cuộc hoằng dương Phật pháp. Đưa Phật pháp đến gần với thế gian hơn để phát triển Phật giáorộng rãi khắp quần chúng nhân dân. 3. Người tinh thông “sấm vĩ học và phong thủy học” Thiền sư Vạn Hạnh là người kế thừa được những tinh hoa của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi về phong thủy và sấm vĩ triệt để nhất, là người đã ứng dụng nghệ thuật sấm vĩ một cách toàn diện và khéo léo, tài tình nhất. Trong những bài sấm của thiền sư Vạn Hạnh có thể kể đến lần sét đánh lên cây gạo do thiền sư Đinh La Quý trồng ở chùa Minh Châu khi xưa. Sau khi bị sét đánh cháy trên thân cây gạo hiện ra bài sấm “Thụ căn diểu diểu Mộc biểu thanh thanh Hòa đao mộc lạc Thập bát tử thành Đông A nhập địa Dị mộc tái sinh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình”. Dịch “Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây hòa đao rụng Mười tám hạt thành Cành Đông xuống đất Cây khác lại sinh Đông mặt trời mọc Tây sao lặn mất Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình”.[4] Sách Đại Việt Sử ký toàn thư có chép về việc này như sau “nhà sư Vạn Hạnh tự đoán riêng rằng trong câu thụ căn diểu diểu, chữ căn là gốc, gốc tức là vua, chữ diểu đồng âm với yểu, thế là nhà vua chết yểu; trong câu mộc biểu thanh thanh, chữ biểu là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh đồng âm với chữ thịnh; hòa đao mộc là chữ Lê; thập bát tử là chữ Lý; Đông A là chữ Trần; nhập địa tức chỉ giặc phương Bắc vào cướp. câu dị mộc tái sinh tức là họ Lê khác lại nổi lên. Câu Chấn cung kiến nhật thì Chấn là phương Đông, kiến là mọc ra, nhật chỉ Thiên tử; Câu Đoài cung ẩn tinh thì Đoài là phương Tây, ẩn cũng như lặn, tinh là thứ nhân. Mấy câu ấy ý nói vua thì mệnh yểu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ Lý nổi lên. Thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất. Trải qua sáu bảy năm nữa thì thiên hạ thái bình” [5]. Về phương diện phong thủy học, thiền sư Vạn Hạnh cũng là người tinh thông. Nếu xét kĩ từ “Chiếu dời đô” có thể thấy tư duy của một võ tướng không thể đạt đến trình độ như vậy. Trong lời lẽ bất hủ ấy ắt hẳn phải có một phần tư duy của những con người thực sự am hiểu về địa lí, mà người giúp sức cho Lý Thái Tổ trong công cuộc dời đô ấy không ai khác ngoài thiền sư Vạn Hạnh. Sấm vĩ học và phong thủy học là những phương tiện để các thiền sư hoằng dương chánh pháp đem đạo lý Phật đà truyền đến cho trăm họ bách tính. Truyền đến thiền sư Vạn Hạnh, nghệ thuật sấm vĩ và phong thủy ấy đã được thiền sư sử dụng với tinh thần tùy duyên bất biến ứng dụng sấm vĩ và phongthủy một cách tài tình để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Việc làm ấy có thể coi là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Mục đích cuối cùng của thiền sư Vạn Hạnh cũng chỉ là giúp đất nước tránh một cuộc can qua, máu nhuộm sơn hà. Đưa người hiền lên ngôi đế vương để xây dựng đất nước cường thịnh và phát triển, xiển dương Phật pháp để xây dựng một xã hội theo tinh thần Phật giáo. 4. Công dạy Lý Công Uẩn Thời kì Bắc thuộc là thời kì đen tối trong lịch sử dân tộc ta. Ngoài việc thống trị hà khắc, chế độ phong kiến phương Bắc còn sử dụng các thủ đoạn tàn độc, ảnh hưởng lâu dài đến dân tộc ta. Chúng đồng hóa văn hóa của dân tộc ta. Thực hiện chính sách ngu dân để hạn chế sự học của người Việt. Vì vậy kẻ sĩ trên thiên hạ vốn đã không nhiều, giờ còn bị nhòm ngó nên khó có thể đem hiểu biết của mình mà dạy người. Vì lẽ ấy tầng lớp Tăng sĩ lúc bấy giờ, ngoài việc phải chăm lo giáo dục đạo đức còn phải đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân trong việc học chữ. Có thể nói trong thời kì ấy ngoài đời sống không thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của quần chúng thì mái chùa là nơi che chở hồn dân tộc. Chốn Già lam ấy là lớp học chữ trong thời gian dài tăm tối của dân tộc Việt. Trẻ em đến chùa học không phải để xuất gia cũng không phải chỉ học Phật giáo, mái chùa lúc bấy giờ là nơi dạy cả Nho, Lão, Phật và là nơi nuôi lớn tài năng của bao danh nhân đất Việt. Việc học trong chốn Già lam ấy vẫn còn “dư âm” kéo dài đến tận thời kì ta đã giành lại độc lập chủ quyền. Đại diện tiêu biểu cho hàng lớp trẻ em học tập từ trong mái chùa hồn hậu dưới sự hướng dẫn chỉ dạy của các vị thiền sư mà bước ra cuộc đời là Lý Công Uẩn. Thực sự mà nói Lý Công Uẩn đã nhận được sự giáo dục rất tốt từ Phật giáo mà người thầy trực tiếp của ông chính là thiền sư Vạn Hạnh. Trong buổi đầu giành được độc lập, các Nhà nước đầu tiên đều dùng “bạo trị” để cai trị thiên hạ. Thiền sư Vạn Hạnh với ý niệm chuyển hóa một xã hội Việt Nam từ “bạo trị” sang “đức trị”, biến một quốc gia Đại Cồ Việt đang suy vi vì chiến loạn liên tục, máu đổ khắp nơi thành một quốc gia phú cường, hưng thịnh, nhân dân ấm no hạnh phúc. Để có được việc đó, thiền sư Vạn Hạnh đã ra tay hành động một cách kiên trì và âm thầm từ trong công việc giáo dục. Để có một cuộc cách mạng thay đổi triều đại mà không đổ máu năm 1009, thiền sư Vạn Hạnh đã chuẩn bị rất nhiều tâm huyết trong hàng chục năm để trang bị cho Lý Công Uẩn một nền giáo dục toàn bích, kết hợp Phật giáo tính, dân tộc tính và thời đại tính. Đồng thời cũng mang trong nó bách khoa tính, thực dụng tính và lãnh đạo tính biến cậu bé Lý Công Uẩn thông minh khác thường thành một người tài đức vẹn toàn, một công dân gương mẫu, một vị tướng trung dũng, đồng thời cũng thấm nhuần giáo lý Phật đà để có thể trở thành một vị quân vương bồ tát, trị quốc an dân theo chánh pháp. Có thể nói công dạy Lý Công Uẩn của thiền sư Vạn Hạnh rất to lớn. Việc giáo dục nhân cách và đạo đức một con người từ thuở còn thơ, rèn văn luyện võ như vậy có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tư tưởng của Lý Công Uẩn trong việc trị quốc sau này. 5. Phò tá Lý Công Uẩn lên ngôi và trị nước Việc giành lại độc lập chủ quyền dân tộc đến đầu thế kỷ XI đã có thể gọi là hoàn toàn. Nhà Tiền Lê với việc chống xâm lược Tống để bảo vệ độc lập dân tộc là một thiên sử vẻ vang trong lịch sử nước nhà. Có thể nói sứ mệnh lịch sử của nhà Tiền Lê đến thời Lê Long Đĩnh đã là hồi kết. Phú cường và an cư lạc nghiệp là nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc lúc bấy giờ. Để thực hiện nhu cầu ấy, Phật giáo với tinh thần nhập thế đã từng bước tiến hành công việc để đạt đến mục đích. Dưới sự chuẩn bị của thiền sư Vạn Hạnh mọi việc đã diễn tiến thuận lợi. Năm 1009 khi Lê Long Đĩnh băng hà, các thế lực Phật giáo đã tiến hành đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Thiền sư Vạn Hạnh từng nói với Lý Công Uẩn “Mới rồi tôi trông thấy lời phù sấm kì lạ, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp, nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân lại nắm binh quyền, đứng đầu muôn dân chẳng phải thân vệ thì còn ai đương nổi nữa, tôi đã hơn bảy mươi tuổi rồi, mong được thư thái hãy chết, để xem đức hóa công như thế nào, thực là cái hay nghìn năm không có một. [6] Thiền sư Vạn Hạnh lại nói với tướng Đào Cam Mộc “Thân vệ là người khoan thứ nhân từ, lòng người chịu theo, hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, thân vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được”. [7] Việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi đã hoàn thành được chí nguyện xây dựng một Nhà nước có thể đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước phú cường và dân chúng được an cư lạc nghiệp. Sau khi đưa Lý Công Uẩn lên ngôi thiền sư Vạn Hạnh còn là người cố vấn cho vua trong mọi việc quân quốc đại sự, để định cuộc đất nước, đưa ra các biện pháp trị quốc thích hợp. Có thể nói xã hội đời Lý thái bình thịnh trị là do nền tảng mà thiền sư Vạn Hạnh đã âm thầm xây dựng và giúp đỡ Lý Công Uẩn thực hiện công việc ấy. 6. Thời gian cuối đời của thiền sư Vạn Hạnh Thời gian cuối đời thiền sư Vạn Hạnh lui về chốn Già lam u tịch phụng sự cho Đạo pháp. Thiền sư vẫn tiếp tục công việc giáo dục cho bao thế hệ trẻ thơ, đồng thời cũng làm cố vấn cho các việc quan trọng mà Lý Thái Tổ thỉnh ý. Năm Thuận Thiên thứ 16 1025 thiền sư không đau ốm gì mà thị tịch. Thi hài thiền sư Vạn Hạnh được triều đình và môn đồ pháp quyến trà tỳ và đặt trong tháp thờ ở chùa Tiêu Sơn. Trước khi thị tịch thiền sư Vạn Hạnh để lại bài kệ để răn dạy hàng đệ tử “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Dịch “Thân như bóng chớp có rồi không Cây cối xuân tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ hạt sương đông”. [8] Chính trong bài kệ thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh đã thể hiện rõ nét tư tưởng của ông, một tư tưởng triết học Phật giáo thiền tông. Mọi sự vật, hiện tượng đều luôn biến động vô thường. Con người cũng không tránh khỏi quy luật vô thường ấy. Vì phàm phu không hiểu được quy luật vô thường ấy mà có sự sợ hãi về cuộc thịnh suy của thời vận. Là bậc tu hành chứng đắc, đạt đến cảnh giới “nhậm vận” thiền sư Vạn Hạnh đã hiểu rõ quy luật vô thường. Chính vì hiểu vậy nên thiền sư trở về với bản tính chân như vốn có của con người từ đó có thể thấy được cái “vô ngã” trong giáo lý nhà Phật. Chính vì lẽ ấy mà sự hòa nhập giữa nội tâm và ngoại giới ở thiền sư Vạn Hạnh đã đạt đến cảnh giới đỉnh cao, vượt lên mọi sự phân biệt của thế giới nhị nguyên. Sự an nhiên trở về với tự tính, trở về với lẽ chân như mà diệu hữu của đạo Phật để thấy được bản thể trong sự vận động vĩnh cửu vô thủy, vô chung. Vì vậy khi ấy con người chỉ có thể coi như ánh chớp có rồi không ngắn ngủi. Và sự thịnh suy của cuộc đời cũng mong manh nhỏ nhoi như giọt sương đọng trên đầu ngọn cỏ. Theo giáo lý thiền tông thân xác chỉ là hóa thân có mất đi cũng chỉ là kết thúc một dạng tồn tại, chứ bản thể có mất đi bao giờ mà buồn thương tiếc nuối. Và đó cũng là bài học mà thiền sư Vạn Hạnh để lại cho đời sau. 7. Nhận định về vai trò và vị trí của thiền sư Vạn Hạnh Vạn Hạnh là vị thiền sư lỗi lạc của Việt Nam thời nhà Lý. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là một sự nghiệp lớn góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Là một người rũ bỏ danh lợi tìm đến chốn Phật môn, nhưng Vạn Hạnh không phải là người lánh đời, tìm về chốn sơn lâm mà mai danh ẩn tính. Trái lại Vạn Hạnh đã dấn thân vào cuộc đời, đem tinh thần nhập thế của Phật giáo vào cuộc đời một cách chủ động và siêu thoát. Thiền sư đã đem sự hiểu biết của mình mà giáo dục, dìu dắt kẻ có lòng, tích cực hỗ trợ cho các vị anh hùng, những bậc minh quân, anh chúa. Con đường mà thiền sư Vạn Hạnh đã bước đi là con đường hành động với trái tim vô cầu, với quyết ý đem tất cả tâm can phò trợ những người khoan dung, được lòng dân, có hoài bão làm cho dân cho nước thịnh trị. Có thể nói thiền sư Vạn Hạnh là một người đã có vai trò rất lớn trong việc hình thành nhà Lý. Thiền sư đã làm được việc thay đổi triều đại mà không đổ máu. Tuy nhiên thiền sư không phải là người ham vinh hoa, phú quý vì danh lợi mà làm việc ấy. Bởi thế với tinh thần nhập thế của bậc đại hùng, đại lực, đại từ bi, thiền sư Vạn Hạnh đã một phần nào làm nên một triều đại nhà Lý huy hoàng trong lịch sử. Để nói lên và ghi nhận vai trò của thiền sư Vạn Hạnh đối với đất nước, dân tộc, Lý Nhân Tông đã tán thán thiền sư với bài kệ rằng “Vạn Hạnh dung tam tế Ưng phù cổ sấm thi Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích chấn vương kì”. Dịch “Hành tung thấu triệt ba đời Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa Quê hương Cổ Pháp bây giờ Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền”.[9] TÀI LIỆU THAM KHẢO Trương Văn Chung và Nguyễn Doãn Chính đồng chủ biên 2008, Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia. Thích Mãn Giác 2003, Vạn Hạnh – kẻ đi qua cầu lịch sử, Nxb. Tôn giáo. Hoàng Xuân Hãn 1996, Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb. Hà Nội. Hội đồng biên tập 1997, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội. Đinh Gia Khánh chủ biên 2010, Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb. Giáo dục Việt Nam. Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học. Ngô Sĩ Liên 2009, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa – Thông tin. Nguyễn Đăng Na 2004, Văn học thế kỷ X – XIV, Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội. Ngô Thì Sĩ 2011, Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Văn hóa – Thông tin. Lê Mạnh Thát 2005, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Mạnh Thát 2009, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Mật Thể 2004, Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo. Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga dịch 2014, Thiền uyển tập anh, Nxb. Hồng Đức. Nguyễn Khắc Thuần 2004, Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, Tập II, III, Nxb. Giáo dục Việt Nam. Trần Thuận 2014, Tư tưởng Việt Nam thời Trần, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Thích Thanh Từ 2010, Đạo Phật trong mạch sống dân tộc, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Thích Thanh Từ 1992, Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tôn giáo. Viện Triết học 1993, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội. Thích Nhuận Lạc [1] Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr 137. [2] Theo chữ Hán ghép 3 chữ “thập”, “bát”, “tử” lại sẽ thành chữ “Lý”. [3] Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr 139. [4]Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr 142. [5] Ngô Sĩ Liên 2009, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa – thông tin, tr 155. [6] Ngô Sĩ Liên 2009, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa – thông tin, tr 155. [7] Ngô Sĩ Liên 2009, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa – thông tin, tr 156. [8] Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr 144. [9]Nguyễn Lang 2011, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr 144.
tiểu sử thiền sư vạn hạnh